Đối Tượng Điều Chỉnh Của Luật Dân Sự Việt Nam Hiện Hành

Luật dân sự là bộ luật điều chỉnh các quan hệ xã hội nhân thân và quan hệ tài sản giữa cá nhân, pháp nhân trong những quan hệ được thiết lập trên các nguyên tắc bình đẳng, tự do ý chí, độc lập tài sản và tự chịu trách nhiệm. Để điều chỉnh các đối tượng điều chỉnh của luật dân sự, Nhà nước áp dụng nhiều biện pháp tác động khác nhau nhằm định hướng sự hình thành, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ xã hội sao cho phù hợp. Hãy cùng Luật Đại Bàng khám phá chi tiết về đối tượng điều chỉnh của bộ luật dân sự trong bài viết dưới đây. 

Luật dân sự là gì?

Luật dân sự trong bộ máy pháp luật Việt Nam
Luật dân sự trong bộ máy pháp luật Việt Nam

Luật dân sự là một bộ luật quy định các nguyên tắc cơ bản cùng nhiều chế định khác nhau, bao gồm: Chế định về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự; chế định về nghĩa vụ hoàn trả khi chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc thu lợi từ tài sản mà không có căn cứ pháp lý; chế định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;  chế định về tài sản và quyền sở hữu; chế định về thực hiện công việc không có ủy quyền; chế định về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ, chế định về thừa kế; chế định về chuyển nhượng quyền sử dụng đất. 

Mỗi chế định trong luật dân sự đều được xây dựng trên các nguyên tắc cơ bản, có những quy phạm pháp luật được tổ chức và áp dụng theo các tiêu chí riêng biệt phù hợp với từng lĩnh vực.

Các nguyên tắc cơ bản hình thành bộ luật dân sự

Những nguyên tắc được quy định rõ ràng của luật dân sự
Những nguyên tắc được quy định rõ ràng của luật dân sự

Các nguyên tắc cơ bản xây dựng luật dân sự là những tư tưởng, quan điểm chủ đạo trong quá trình xây dựng và áp dụng luật dân sự, được quy định tại Điều 3 Bộ luật Dân sự. Cụ thể gồm 5 nguyên tắc sau:

  • Mọi cá nhân, pháp nhân đều có quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử và được pháp luật bảo vệ quyền nhân thân và tài sản một cách công bằng.
  • Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình dựa trên cơ sở tự do, tự nguyện và thỏa thuận. Các cam kết, thỏa thuận không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội sẽ có hiệu lực thi hành và phải được các bên và các chủ thể khác tôn trọng.
  • Cá nhân, pháp nhân phải hành động thiện chí, trung thực khi xác lập, thực hiện và chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình.
  • Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt các quyền, và nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
  • Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm đối với việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự của mình.

Các đối tượng điều chỉnh của Luật dân sự

Các đối tượng điều chỉnh trong bộ luật dân sự 
Các đối tượng điều chỉnh trong bộ luật dân sự

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự bao gồm 2 đối tượng là quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa cá nhân, pháp nhân trong các mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm. Cụ thể như sau:

Quan hệ nhân thân

Quan hệ nhân thân là mối quan hệ giữa con người với nhau về các giá trị thân nhân của cá nhân, tổ chức được pháp luật công nhận. Những quan hệ này luôn gắn liền với một chủ thể cụ thể và về nguyên tắc, không thể chuyển nhượng cho chủ thể khác.

Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự về nhân thân thông qua việc xác định các giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân, quy định trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền này, đồng thời đưa ra các biện pháp bảo vệ và thực thi các quyền nhân thân đó.

Các quyền nhân thân được quy định trong Luật Dân sự bao gồm: Quyền xác định và xác định lại dân tộc; Quyền có họ, tên; Quyền thay đổi họ và tên; Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác; Quyền được khai sinh, khai tử; Quyền của cá nhân đối với hình ảnh;  Quyền đối với quốc tịch; Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình; Quyền xác định lại giới tính và chuyển đổi giới tính; Quyền sống, quyền bảo vệ tính mạng, sức khỏe, thân thể; Quyền bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín; Quyền về đời sống riêng tư, bí mật của cá nhân, bí mật gia đình; Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (theo Điều 26 đến Điều 39 Bộ luật Dân sự 2015).

Quan hệ nhân thân trong Luật Dân sự được chia thành hai nhóm:

  • Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản
  • Quan hệ nhân thân gắn với tài sản

Quan hệ nhân thân gắn liền với tài sản là nhóm quan hệ phát sinh từ các giá trị tinh thần ban đầu, trong đó các chủ thể sẽ hưởng lợi ích vật chất từ việc chuyển nhượng quyền đối với kết quả sáng tạo. Đây là các quan hệ nhân thân do cá nhân tạo ra từ các giá trị tinh thần và gắn với tài sản, có thể chuyển nhượng cho người khác.

Ngược lại, mối quan hệ nhân thân không gắn liền với tài sản là các mối quan hệ nhân thân phát sinh từ các giá trị tinh thần mà không có yếu tố kinh tế và hoàn toàn không thể chuyển nhượng.

Quan hệ tài sản

Quy định về quan hệ tài sản trong luật dân sự
Quy định về quan hệ tài sản trong luật dân sự

Quan hệ tài sản là mối quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức thông qua việc sở hữu và sử dụng một tài sản cụ thể. Quan hệ tài sản gắn liền với một tài sản nhất định, được thể hiện dưới các hình thức khác nhau.

Quan hệ tài sản mà Bộ luật Dân sự điều chỉnh là các quan hệ kinh tế, xã hội cụ thể, phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và tuân thủ theo luật giá trị. Trong quan hệ tài sản của luật dân sự, các chủ thể tham gia vào quan hệ này phải có quyền sở hữu đối với tài sản đó. Theo Điều 158 của Bộ luật Dân sự 2015 thì quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu, căn cứ theo quy định của pháp luật.

Dựa trên mối quan hệ xã hội, quan hệ tài sản được chia thành hai nhóm:

  • Nhóm quan hệ liên quan đến các quyền sở hữu
  • Nhóm quan hệ hình thành trong quá trình lưu chuyển tài sản giữa các chủ thể.

Phương pháp điều chỉnh các đối tượng của luật dân sự

Phương pháp định hướng điều chỉnh luật dân sự
Phương pháp định hướng điều chỉnh luật dân sự

Phương pháp điều chỉnh của một ngành luật là sự kết hợp các biện pháp, phương tiện và cách thức tác động vào các quan hệ xã hội mà ngành luật đó quản lý. Thông qua phương pháp này, pháp luật có thể tác động một cách đồng bộ lên các quan hệ xã hội, giúp hình thành, xác lập, bảo vệ, phát triển hoặc ngăn ngừa sự hình thành, tồn tại và phát triển của những quan hệ xã hội theo mong muốn của nhà nước trong các lĩnh vực cụ thể. Phương pháp điều chỉnh và đối tượng điều chỉnh là cơ sở để phân chia các ngành luật trong hệ thống pháp lý.

Trong luật dân sự, phương pháp điều chỉnh của luật dân sự được xây dựng trên nền tảng tôn trọng sự bình đẳng giữa các bên tham gia quan hệ pháp lý dân sự. Bình đẳng giữa các chủ thể là yếu tố cốt lõi, dựa trên sự độc lập về tài sản và tổ chức. Việc xác lập, thực hiện và giải quyết các quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân chủ yếu do ý chí và lợi ích của các chủ thể tham gia quyết định. Vì không có sự ràng buộc về tài sản và tổ chức, các chủ thể có tư cách pháp lý bình đẳng. Do đó, Nhà nước khuyến khích việc thỏa thuận giữa các bên trong khuôn khổ pháp luật.

Tuy nhiên, sự tự do trong việc định đoạt của các chủ thể không đồng nghĩa với tự do tuyệt đối trong việc tạo lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ. Các quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân thường có tính phức tạp và đa dạng, vì vậy các quy phạm pháp luật không thể bao quát hết được mọi tình huống phát sinh trong thực tế.

  • Đặc điểm của phương pháp giải quyết tranh chấp dân sự là chú trọng vào hòa giải.
  • Trách nhiệm dân sự không chỉ được quy định bởi pháp luật mà còn phụ thuộc vào thỏa thuận của các bên về các điều kiện phát sinh và hậu quả của trách nhiệm đó.

Với những thông tin trên, Luật Đại Bàng hy vọng đã giúp quý khách hiểu rõ hơn về quy định của pháp luật liên quan đến các đối tượng điều chỉnh của luật dân sự và phương pháp điều chỉnh của bộ luật này. Nếu quý khách gặp khó khăn hoặc có bất kỳ câu hỏi nào, đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để được các luật sư chuyên môn đầy đủ kinh nghiệm giải đáp chi tiết nhất.

  • Điện thoại:  0979923759
  • Gmail: contact.luatdaibang.com@gmail.com