Quyền nhân thân là một cơ sở pháp lý thiết yếu để đảm bảo cá nhân tồn tại như một chủ thể độc lập trong xã hội, bảo vệ các quyền lợi cơ bản của họ. Là một phần của quyền dân sự, loại quyền này mang đầy đủ những đặc điểm của quyền dân sự, đồng thời cũng có những yếu tố riêng biệt để phân biệt với quyền tài sản. Đọc kỹ bài viết sau của Luatdaibang.net sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về loại quyền này.
Quyền nhân thân là gì?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 25 Bộ luật dân sự 2015 (BLDS 2015), quyền nhân thân là một loại quyền dân sự gắn liền với cá nhân, không được phép chuyển nhượng cho người khác, trừ khi có quy định khác từ các luật liên quan.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, để xác lập hoặc thực hiện các quan hệ dân sự liên quan đến quyền nhân thân, cần có sự đồng ý của người đại diện hợp pháp theo pháp luật.
Cụ thể, tại khoản 2 Điều 25 BLDS 2015 quy định rằng:
- Đối với người chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc người gặp khó khăn trong nhận thức, điều khiển hành vi: Việc xác lập hoặc thực hiện quan hệ dân sự liên quan đến quyền này phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật của cá nhân đó theo như quy định tại BLDS 2015, các luật liên quan hoặc quyết định của Tòa án.
- Đối với người bị tuyên bố mất tích hoặc đã chết: Việc này phải được sự đồng ý của vợ, chồng hoặc con đã thành niên của họ. Nếu không có những người này, cha, mẹ của người bị tuyên bố đã mất tích hoặc đã chết sẽ là người trực tiếp đưa ra sự đồng ý, trừ khi có quy định khác từ BLDS 2015 hoặc các luật liên quan.
Đặc điểm của quyền nhân thân
Để hiểu sâu hơn về quyền nhân thân, cần nắm rõ các đặc điểm chính sau:
Không mang tính chất vật chất
Khác với quyền tài sản, quyền nhân thân liên quan đến các giá trị tinh thần, vì vậy nó không thể được biểu hiện dưới hình thức vật chất, không thể chuyển đổi thành tiền và mang giá trị phi vật chất. Giá trị tinh thần và giá trị tiền tệ không thể so sánh và trao đổi ngang giá. Do đó, quyền nhân thân không thể bị định đoạt hay chuyển nhượng cho người khác.
Người ta cũng không thể kê biên quyền nhân thân của một con nợ. Pháp luật đảm bảo sự bình đẳng về quyền nhân thân cho tất cả các chủ thể. Mặc dù mỗi cá nhân sở hữu những giá trị nhân thân riêng biệt, nhưng khi các giá trị này bị xâm phạm, pháp luật bảo vệ tất cả một cách đồng đều.
Thuộc về cá nhân và không thể chuyển giao
Quyền nhân thân luôn đi kèm với một cá nhân cụ thể, vì mỗi người sở hữu một giá trị nhân thân riêng biệt. Dẫu vậy, quyền này không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ yếu tố khách quan nào như độ tuổi, trình độ học vấn, giới tính, tín ngưỡng, hay địa vị xã hội.
Quyền nhân thân cũng không thể chuyển nhượng cho người khác, có nghĩa là nó chỉ có thể được thực hiện bởi chính cá nhân đó, hoặc đối với một số tình huống nhất định, những người đại diện theo quy định của pháp luật của cá nhân đó có thể đại diện thực hiện.
Bên cạnh đó, nó cũng không thể trở thành đối tượng của các giao dịch như mua bán, trao đổi, hay tặng cho. Ví dụ, khi một người mẫu ký hợp đồng cho phép công ty quảng cáo sử dụng hình ảnh của mình, nghĩa là họ chỉ cấp phép khai thác các bức ảnh cụ thể chứ không chuyển nhượng quyền quyết định về hình ảnh của mình. Việc cho phép sử dụng hình ảnh chỉ là việc khai thác giá trị kinh tế của tài sản trí tuệ, chứ không phải việc từ bỏ quyền sở hữu bản thân.
Để làm rõ hơn, quyền nhân thân được chia làm hai nhóm quyền là quyền nhân thân cơ sở (không thể tách rời khỏi cá nhân, như quyền sống, quyền có tên) và quyền nhân thân phái sinh (phát sinh từ quyền cơ sở, được khai thác như quyền sử dụng hình ảnh). Ở ví dụ trên, quyền đối với hình ảnh người mẫu là quyền nhân thân cơ sở, còn quyền sử dụng các bức ảnh cụ thể chính là quyền nhân thân phái sinh.
Các quy định pháp luật dân sự về quyền nhân thân của mỗi cá nhân
Quyền nhân thân được phân thành nhiều quyền khác nhau, bao gồm:
Quyền có họ, tên (theo Điều 26 BLDS 2015)
Mỗi người đều có quyền có họ và tên, bao gồm cả chữ đệm nếu có. Họ và tên của một người được xác định dựa trên thông tin trong giấy khai sinh.
Họ của một cá nhân có thể được lựa chọn theo họ của cha đẻ hoặc mẹ đẻ, tùy vào thỏa thuận giữa cha mẹ. Nếu chưa có thỏa thuận, họ của con sẽ được xác định theo tập quán. Đối với trường hợp trẻ em không rõ cha đẻ, họ sẽ mang họ mẹ. Riêng đối với trẻ em bị bỏ rơi và được nhận làm con nuôi, họ sẽ mang họ của cha mẹ nuôi theo thỏa thuận. Trường hợp chưa có ai nhận nuôi, họ của trẻ sẽ được xác định theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở chăm sóc trẻ em hoặc người đăng ký khai sinh, nếu trẻ đang được người đó tạm thời nuôi dưỡng.
Căn cứ theo BLDS 2015, cha mẹ được xác định thông qua sự kiện sinh đẻ, kể cả trong trường hợp nhờ người khác mang thai hộ.
Việc đặt tên cho con bị hạn chế trong những trường hợp xâm phạm đến quyền lợi của người khác hoặc trái với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Điều 3 BLDS 2015.
Tên của người Việt Nam phải dùng tiếng Việt hoặc tiếng của các dân tộc thiểu số ở nước ta, không được đặt tên bằng số hoặc ký tự không phải chữ cái.
- Mỗi cá nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình dựa trên họ và tên.
- Việc sử dụng bí danh hoặc bút danh phải đảm bảo không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Quyền thay đổi họ (theo Điều 27 BLDS 2015)
Mỗi cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận việc thay đổi họ trong các trường hợp sau:
- Thay đổi họ cho con ruột từ họ cha sang họ mẹ hoặc ngược lại.
- Thay đổi họ của con nuôi từ họ của cha mẹ đẻ sang họ của cha mẹ nuôi theo yêu cầu của cha mẹ nuôi;
- Khi người con nuôi không còn là con nuôi, cá nhân đó hoặc cha mẹ đẻ yêu cầu khôi phục họ theo họ của cha hoặc mẹ đẻ;
- Thay đổi họ của con theo yêu cầu của cha mẹ đẻ hoặc chính người con khi xác nhận quan hệ cha mẹ và con cái;
- Thay đổi họ của người bị lưu lạc sau khi đã xác định được nguồn gốc huyết thống;
- Chuyển đổi họ theo họ của vợ hoặc chồng trong trường hợp hôn nhân có yếu tố nước ngoài, nhằm phù hợp với pháp luật của quốc gia mà người vợ hoặc chồng là công dân, hoặc khôi phục lại họ cũ trước khi thay đổi;
- Thay đổi họ của con khi cha mẹ đã thay đổi họ;
- Các trường hợp liên quan khác theo quy định của pháp luật về hộ tịch.
Đối với người đủ 9 tuổi trở lên, thay đổi họ phải có sự chấp thuận từ người đó. Thay đổi họ không dẫn đến sự thay đổi hoặc mất đi các quyền, nghĩa vụ dân sự đã có trước đó.
Quyền thay đổi tên (theo Điều 28 BLDS 2015)
Mỗi người đều được quyền đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận thay đổi tên trong các trường hợp sau:
- Khi người mang tên cảm thấy việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến mối quan hệ gia đình, danh dự, hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
- Theo yêu cầu của cha mẹ nuôi để thay đổi tên cho con nuôi, hoặc khi người con nuôi không còn là con nuôi, người đó hoặc cha mẹ đẻ đề nghị khôi phục tên mà cha mẹ đẻ đã đặt;
- Khi xác định quan hệ cha mẹ và con cái, cha mẹ đẻ hoặc chính người con có thể yêu cầu thay đổi tên;
- Người bị thất lạc, sau khi tìm lại được nguồn gốc huyết thống có quyền đề nghị thay đổi tên;
- Vợ hoặc chồng trong hôn nhân có yếu tố nước ngoài muốn thay đổi tên để phù hợp với pháp luật của quốc gia mà vợ hoặc chồng là công dân, hoặc muốn khôi phục lại tên trước đây;
- Người đã được xác định lại giới tính hoặc chuyển đổi giới tính có thể yêu cầu thay đổi tên;
- Các trường hợp khác được quy định trong pháp luật về hộ tịch.
Việc đổi tên cho người từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Việc thay đổi này cũng không ảnh hưởng đến các quyền và nghĩa vụ dân sự đã được xác lập dựa trên tên cũ.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc (theo Điều 29 BLDS 2015)
Mỗi cá nhân có quyền tự xác định hoặc thay đổi lại dân tộc của mình. Thông thường, dân tộc của một người được xác định theo dân tộc của bố mẹ. Nếu bố mẹ thuộc hai dân tộc khác nhau, con sẽ theo dân tộc của bố hoặc mẹ, tùy theo thỏa thuận của bố mẹ hoặc theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
Đối với trẻ em bị bỏ rơi, nếu được nhận làm con nuôi thì sẽ theo dân tộc của bố mẹ nuôi, căn cứ vào sự thống nhất giữa cha mẹ nuôi. Nếu chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi, dân tộc của trẻ sẽ theo dân tộc của người đó. Còn nếu chưa có ai nhận nuôi, dân tộc của trẻ sẽ được xác định theo đề xuất của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng hoặc người tạm thời chăm sóc trẻ khi làm thủ tục đăng ký khai sinh.
Cá nhân được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền thay đổi dân tộc trong các trường hợp sau:
- Thay đổi theo dân tộc của cha hoặc mẹ trong trường hợp cha mẹ thuộc hai dân tộc khác nhau;
- Thay đổi theo dân tộc của cha hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha mẹ đẻ của mình.
Việc thay đổi dân tộc đối với người từ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi phải có sự đồng ý của chính người đó. Nghiêm cấm việc lợi dụng thay đổi dân tộc để mưu lợi cá nhân hoặc gây chia rẽ, làm tổn hại đến sự đoàn kết dân tộc của đất nước.
Quyền được khai sinh, khai tử (theo Điều 30 BLDS 2015)
Mỗi người đều có quyền được đăng ký khai sinh ngay từ khi chào đời. Khi qua đời, việc khai tử cũng là quyền và nghĩa vụ đối với cá nhân.
Trẻ em khi sinh ra, nếu sống từ 24 giờ trở lên rồi mất, phải được thực hiện cả thủ tục khai sinh và khai tử. Đối với trường hợp trẻ sống dưới 24 giờ rồi mất, không bắt buộc phải đăng ký khai sinh và khai tử, trừ khi cha hoặc mẹ có nguyện vọng thực hiện thủ tục này.
Quyền đối với quốc tịch (theo Điều 31 BLDS 2015)
Mọi cá nhân đều có quyền được mang quốc tịch. Các quy định về việc xác định, thay đổi, nhập quốc tịch, thôi quốc tịch, hoặc khôi phục quốc tịch Việt Nam đều được thực hiện theo Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008. Quyền lợi của người không có quốc tịch nhưng đang cư trú và sinh sống tại Việt Nam cũng được pháp luật bảo vệ và đảm bảo thực hiện theo quy định hiện hành.
Quyền của cá nhân đối với hình ảnh (theo Điều 32 BLDS 2015)
Mọi người có quyền bảo vệ và kiểm soát việc sử dụng hình ảnh của chính mình. Việc sử dụng hình ảnh cá nhân cần được sự chấp thuận từ người có hình ảnh. Đối với việc sử dụng hình ảnh với mục đích thương mại, người sử dụng phải trả thù lao, trừ khi có thỏa thuận khác giữa các bên.
Trong một số trường hợp, việc sử dụng hình ảnh không cần sự đồng ý của người sở hữu hình ảnh hoặc người đại diện hợp pháp của họ, bao gồm:
- Khi hình ảnh được sử dụng nhằm phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc hoặc lợi ích cộng đồng;
- Khi hình ảnh được khai thác từ các hoạt động công cộng như hội nghị, hội thảo, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật hoặc các sự kiện công cộng khác, với điều kiện không làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm, hoặc uy tín của người sở hữu hình ảnh.
Nếu việc sử dụng hình ảnh vi phạm các quy định, người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án yêu cầu người vi phạm hoặc các tổ chức, cá nhân liên quan dừng sử dụng, thu hồi, tiêu hủy hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng những biện pháp xử lý phù hợp theo quy định pháp luật.
Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể (theo Điều 33 BLDS 2015)
Mỗi cá nhân có quyền sống, được bảo vệ tính mạng, thân thể và sức khỏe theo pháp luật. Không ai được quyền tước đoạt tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.
Khi phát hiện người gặp tai nạn hoặc mắc bệnh nguy hiểm đến tính mạng, người phát hiện phải có trách nhiệm hỗ trợ hoặc kêu gọi cá nhân, tổ chức có điều kiện hỗ trợ đưa nạn nhân đến cơ sở y tế gần nhất. Các cơ sở y tế có trách nhiệm thăm khám và điều trị theo quy định pháp luật.
Các thủ thuật y tế như gây mê, phẫu thuật, cấy ghép, hoặc thử nghiệm y học và dược học trên cơ thể người phải có sự đồng ý của người đó và được thực hiện bởi tổ chức có thẩm quyền.
Đối với những người chưa thành niên, mất năng lực hành vi, gặp khó khăn trong nhận thức hoặc đang bất tỉnh, sự đồng ý phải được cung cấp bởi thân nhân của họ. Vậy thân nhân là gì? Họ bao gồm cha, mẹ, vợ, chồng, con đã trưởng thành hoặc người giám hộ. Trong trường hợp khẩn cấp nguy hiểm đến tính mạng mà không thể chờ ý kiến, quyết định phải do người có thẩm quyền tại cơ sở y tế đưa ra.
Khám nghiệm tử thi chỉ được thực hiện khi thuộc một trong các điều kiện sau:
- Có sự đồng ý của người đã mất trước khi qua đời;
- Được sự chấp thuận của thân nhân như cha, mẹ, vợ, chồng, con trưởng thành hoặc người giám hộ;
- Được quyết định bởi người đứng đầu cơ sở y tế hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định pháp luật.
Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín (theo Điều 34 BLDS 2015)
Danh dự, nhân phẩm và uy tín của mỗi người là quyền nhân thân bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án xóa bỏ các thông tin gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, nhân phẩm và uy tín của mình.
Việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm và uy tín có thể được thực hiện sau khi người đó qua đời, theo yêu cầu của vợ, chồng, con thành niên hoặc cha, mẹ của người đã mất, trừ khi có quy định pháp luật khác.
Thông tin gây tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân khi được đăng tải trên phương tiện truyền thông đại chúng phải được gỡ bỏ và cải chính ngay trên cùng phương tiện đó. Nếu thông tin được lưu trữ bởi cơ quan, tổ chức, cá nhân thì phải được xóa bỏ.
Nếu không xác định được người đã phát tán thông tin sai lệch, cá nhân bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố thông tin đó là sai. Ngoài ra, cá nhân còn có quyền yêu cầu người phát tán xin lỗi, cải chính công khai và bồi thường thiệt hại.
Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác (theo Điều 35 BLDS 2015)
Cá nhân có quyền hiến tặng mô, bộ phận cơ thể của mình khi còn sống, hoặc hiến tặng mô, bộ phận cơ thể, hiến xác sau khi qua đời với mục đích phục vụ việc điều trị cho người khác hoặc cho các nghiên cứu y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
Cá nhân cũng có quyền nhận mô, bộ phận cơ thể của người khác để điều trị cho mình. Các cơ sở y tế, cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu khoa học có quyền tiếp nhận bộ phận cơ thể người, lấy xác phục vụ việc chữa bệnh, thử nghiệm y học, dược học và các nghiên cứu khoa học khác.
Việc hiến tặng và lấy mô, bộ phận cơ thể người, hiến tặng và lấy xác phải tuân theo các quy định của BLDS 2015, Luật hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 2006 cùng các quy định pháp luật liên quan.
Quyền xác định lại giới tính (tại Điều 36 BLDS 2015)
Mỗi người có quyền được xác định lại giới tính của mình. Quyền nhân thân này được áp dụng trong các trường hợp người đó có khuyết tật bẩm sinh liên quan đến giới tính hoặc giới tính chưa được định hình rõ ràng, cần có sự hỗ trợ từ y học để xác định chính xác giới tính.
Việc thay đổi giới tính phải tuân theo quy định của pháp luật. Sau khi thực hiện việc xác định lại giới tính, cá nhân có trách nhiệm và quyền lợi đăng ký thay đổi thông tin hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch. Đồng thời, người đó được hưởng các quyền nhân thân phù hợp với giới tính mới đã được xác định lại, theo quy định tại BLDS 2015 và các văn bản pháp luật liên quan khác.
Chuyển đổi giới tính (theo Điều 37 BLDS 2015)
Việc thay đổi giới tính phải tuân theo các quy định của pháp luật. Người đã thực hiện việc chuyển đổi giới tính có quyền và nghĩa vụ thực hiện việc đăng ký thay đổi thông tin hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; đồng thời, có quyền được công nhận nhân thân phù hợp với giới tính đã chuyển đổi theo các quy định trong BLDS 2015 và các luật liên quan khác.
Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình (theo Điều 38 BLDS 2015)
Quyền nhân thân về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và gia đình của mỗi người là không thể xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Việc thu thập, lưu trữ, sử dụng hoặc công khai thông tin liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân phải có sự đồng ý của người đó, trong khi thông tin về bí mật gia đình cần sự đồng thuận của các thành viên gia đình, trừ khi có quy định khác của pháp luật.
Thư tín, các cuộc gọi điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân phải được bảo vệ an toàn và giữ kín. Việc bóc mở, kiểm tra, hoặc thu giữ những thông tin này chỉ được thực hiện khi có quy định của pháp luật.
Trong các giao dịch hợp đồng, các bên không được tiết lộ bất kỳ thông tin nào liên quan đến đời sống riêng tư, bí mật cá nhân hay gia đình mà họ đã biết trong quá trình giao dịch, trừ khi có thỏa thuận cụ thể cho phép điều đó.
Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình (theo Điều 39 BLDS 2015)
Cá nhân có quyền tham gia vào các mối quan hệ hôn nhân và gia đình, bao gồm quyền kết hôn, quyền ly hôn, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, quyền xác định cha mẹ con, quyền được nhận làm con nuôi, quyền nhận nuôi con nuôi và các quyền nhân thân khác trong phạm vi gia đình.
Mọi đứa trẻ, dù được sinh ra trong hay ngoài hôn nhân, đều có quyền và nghĩa vụ bình đẳng đối với cha mẹ mình. Việc thực hiện các quyền nhân thân liên quan đến hôn nhân và gia đình của cá nhân phải tuân thủ theo quy định của BLDS 2015, Luật hôn nhân và gia đình 2014 cùng các quy định pháp luật liên quan khác.
Kết luận
Việc hiểu rõ về quyền nhân thân sẽ giúp bạn bảo vệ bản thân khỏi các hành vi xâm phạm và nâng cao sự hiểu biết về các vấn đề pháp lý quan trọng trong cuộc sống. Nếu bạn gặp phải vấn đề liên quan đến quyền này hoặc các vấn đề pháp lý dân sự khác, hãy liên hệ với Luật Đại Bàng để nhận được sự tư vấn chuyên nghiệp từ đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm nhé.
Hoàng Văn Minh nổi tiếng với phong cách làm việc chuyên nghiệp, tận tâm, và luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu. Với phương châm “Công lý và sự minh bạch” ông Minh không chỉ là một luật sư giỏi mà còn là một người bạn đồng hành đáng tin cậy trong hành trình bảo vệ quyền lợi pháp lý của mỗi người. Trang web Luật Đại Bàng do ông điều hành đã trở thành một địa chỉ tin cậy cho nhiều người tìm kiếm sự trợ giúp và tư vấn pháp lý. Hoàng Văn Minh cam kết tiếp tục đồng hành và hỗ trợ cộng đồng bằng kiến thức và sự hiểu biết của mình, góp phần xây dựng một xã hội công bằng và văn minh hơn.
Thông tin liên hệ:
- Website: https://luatdaibang.net
- Email: ceohoangvanminh@gmail.com
- Địa chỉ: 292 Đ. Nguyễn Xí, Phường 13, Bình Thạnh, Hồ Chí Minh, Việt Nam